Lịch sử hoạt động HMAS Quiberon (G81)

Thế Chiến II

Quiberon thoạt tiên làm nhiệm vụ hộ tống vận tải tại Bắc Đại Tây Dương, hoạt động ngoài khơi Scapa Flow.[3] Nó được điều động để hỗ trợ cho Chiến dịch Torch, cuộc đổ bộ của Đồng Minh lên Bắc Phi vào tháng 10 năm 1942.[3] Vào ngày 28 tháng 11, nó đã tấn công và đánh chìm tàu ngầm Ý Dessiè ngoài khơi bờ biển Tunisia.[3] Sau đó chiếc tàu khu trục được phân về Lực lượng Q đặt căn cứ tại Bone, bao gồm ba tàu tuần dương và hai tàu khu trục chị em cùng lớp Q.[3] Khoảng nữa đêm ngày 1 tháng 12, lực lượng đã phát hiện và tấn công một đoàn tàu vận tải Ý gồm bốn tàu buôn và các tàu khu trục hộ tống ngoài khơi Skerki Bank.[3] Cả bốn chiếc tàu tiếp liệu đều bị đánh chìm trong khuôn khổ Trận Skerki Bank diễn ra sau đó, và đến 01 giờ 35 phút ngày 2 tháng 12, Quiberon bắn phát đạn cuối cùng vào chiếc tàu phóng lôi lớp Spica vốn nằm trong thành phần hộ tống của một đoàn tàu khác.[3] Đang khi quay về cảng, tàu chị em HMS Quentin trúng ngư lôi do không kích của một máy bay Đức. Quiberon đã giúp di tản phần lớn thủy thủ đoàn của con tàu chị em.[3] Đến ngày 21 tháng 12, nó cứu vớt những người sống sót từ chiếc tàu chở khách Strathallen.[3]

Quiberon vào năm 1945

Vào tháng 1 năm 1943, Quiberon hộ tống một đoàn tàu vận tải đi từ Anh đến Cape Town, rồi tiếp tục đi đến Victoria, Australia để tái trang bị.[3] Sau khi công việc hoàn tất, nó được phân về Hạm đội Đông, chủ yếu làm nhiệm vụ hộ tống vận tải đi lại dọc Ấn Độ Dương.[3] Vào tháng 4 năm 1944, nó nằm trong thành phần hộ tống tàu sân bay trong Chiến dịch Cockpit, rồi sang tháng 5 trong Chiến dịch Transom, những cuộc không kích nhắm vào lãnh thổ còn do Nhật Bản chiếm đóng tại Đông Ấn thuộc Hà Lan.[3] Sau một đợt tái trang bị ngắn tại Melbourne, nó tiếp nối hoạt động cùng Hạm đội Đông vào tháng 8.[3] Sang tháng 10, nó tham gia một loạt các cuộc bắn phá của hạm đội xuống quần đảo Nicobar do Nhật Bản chiếm đóng.[3] Đến giữa tháng 12, chiếc tàu khu trục được điều về vùng biển Australia làm nhiệm vụ hộ tống vận tải và tuần tra chống tàu ngầm.[3] Đến đầu năm 1945, nó được phối thuộc cùng Hạm đội Thái Bình Dương.[3] Hoạt động từ đảo Manus, nó tham gia các hoạt động hỗ trợ cho việc chiếm đóng Okinawa và tấn công lên chính quốc Nhật Bản.[3]

Khi xung đột kết thúc, Quiberon có mặt khi lực lượng Đồng Minh tái chiếm Singapore; và từ đó cho đến tháng 2 năm 1946, nó hoạt động tại Viễn Đông, giúp tái lập sự kiểm soát tại Đông Ấn thuộc Hà Lan, vận chuyển binh lính và giúp hồi hương những cựu tù binh chiến tranh.[4] Con tàu được tặng thưởng tám Vinh dự Chiến trận cho những hoạt động trong Thế Chiến II.[5][6] Từ năm 1946 đến năm 1948, nó được bố trí cùng Lực lượng Chiếm đóng Khối Thịnh vượng chung Anh trong ba lượt.[4]

Cải biến thành tàu frigate

Quiberon trong cấu hình sau cải biến.

Vào đầu năm 1950, Hải quân Hoàng gia Australia quyết định cải biến tất cả năm tàu khu trục lớp Q đang trong biên chế (có thêm ba chiếc khác được chuyển giao sau Thế Chiến II) thành những tàu frigate nhanh chống tàu ngầm, tương tự như tàu frigate Kiểu 15 được cải biến từ những tàu khu trục Chương trình Khẩn cấp Chiến tranh của Anh.[7] Một đề nghị rằng Chính phủ Australia sẽ chi trả cho việc nâng cấp năm con tàu đang được cho mượn, với chi phí ước lượng 400.000 Bảng Australia mỗi chiếc.[7] Thay vào đó, Bộ Hải quân Anh tặng những con tàu này cho Australia như một món quà vào ngày 1 tháng 6.[7][8] Việc cải biến là một phần của chương trình nâng cấp toàn diện nhằm cải thiện khả năng chống tàu ngầm của Hải quân Australia, cho dù và các tàu lớp Q khác chỉ là giải pháp tạm thời cho đến khi chế tạo được những tàu frigate chống tàu ngầm thuần túy.[9]

Quiberon bắt đầu được cải biến vào ngày 15 tháng 5 năm 1950 tại các Xưởng tàu Cockatoo IslandGarden Island ở Sydney. Nó nhập biên chế trở lại vào ngày 18 tháng 12 năm 1957.[10] Nó phục vụ tại Viễn Đông cùng với Lực lượng Dự bị Chiến lược Khối Thịnh vượng chung, như một đơn vị của Hạm đội Australia. Nó thực hiện một chuyến viếng thăm đến Burma vào năm 1959; chuyến viếng thăm cuối cùng của một tàu chiến Australia đến đây trong vòng hơn 50 năm, cho đến khi HMAS Childers thực hiện việc tương tự năm 2014.[11] Quiberon được đưa về lực lượng dự bị vào ngày 26 tháng 6 năm 1964; nó bị bán cho hãng Nhật Bản Fujita Salvage Company Limited ở Osaka để tháo dỡ vào ngày 15 tháng 2 năm 1972; và được kéo rời khỏi Sydney vào ngày 10 tháng 4 năm 1972.